Bài 2: Bảng chữ cái phụ âm của tiếng Thái ( Phần 1)
Tiếng Thái là ngôn ngữ chính thức của Thái Lan và là tiếng mẹ đẻ của người Thái, dân tộc chiếm đa số ở Thái Lan. Tiếng Thái là một thành viên của nhóm ngôn ngữ Thái của ngữ hệ Tai-Kadai. Các ngôn ngữ trong hệ Tai-Kadai được cho là có nguồn gốc từ vùng miền Nam Trung Quốc phức tạp, tạo ngày nay và nhiều nhà ngôn ngữ học đã đưa ra những bằng chứng về mối liên hệ với các ngữ hệ Nam Á, Nam Đảo, hoặc Hán-Tạng. Đây là một ngôn ngữ có thanh điệu và phân tích. Sự phối hợp thanh điệu, quy tắc chính tả liên hệ và sự phân biệt trong hệ thống thanh điệu khiến tiếng Thái trở nên khó học với những người chưa từng sử dụng ngôn ngữ có liên quan. >> Hướng dẫn Hoc Tieng Thai cấp tốc.
Học tiếng Thái Lan
Để cho dễ nhớ, người sáng lập ra tiếng Thái lan đã ghép sẵn từng chữ cái phụ âm đi cùng với từ có nghĩa mà chính chữ cái này có mặt trong đó. Chữ “Kh” hiện thị bằng 4 chữ : ข, ฃ, ค, ฅ. Vì vậy, cách gắn với từ có nghĩa còn giúp cho người học biết rõ nên dùng chữ “Kh” nào trong 4 chữ “Kh” trên.
Chữ cái |
Cách đọc |
Từ vững |
Nghĩa |
ก-ไก่ |
Co - cày |
Cày-ไก่ |
Con gà |
ข-ไข่ |
Khỏ - khày |
Khày - ไข่ |
Trứng |
ฃ-ฃวด |
Khỏ - khuột |
Khuột - ฃวด |
Chai, lọ |
ค - ควาย |
Kho - khoai |
Khoai - ควาย |
Con trâu |
ฅ - คน |
Kho - khôn |
Khôn - คน |
Người |
ฆ - ระฆัง |
Kho - rắ - khăng |
Rắ khăng - ระฆัง |
Cái chuông |
ง - งู |
Ngo - ngu |
Ngu - งู |
Con rắn |
จ - จาน |
Cho - chan |
Chan - จาน |
Cái dĩa |
ฉ - ฉิ่ง |
Xỏ - xìng |
Xỏ - ฉิ่ง |
Cái chập cheng |
ช - ช้าง |
so - sáng |
sáng - ช้าง |
Con voi |
ซ - โซ่ |
Xo - Xô |
Xô - โซ่ |
Dây xích |
ฌ - เฌอ |
Xo - Xơ |
Xơ- เฌอ |
Cây si |
ญ - หญิง |
Do – dỉng |
dỉng - หญิง |
Gái, con gái |
ฎ - ชฎา |
Đo – xá - đa |
xá đa-ชฎา |
Tên 1 loại mũ |
ฏ - ปฏัก |
To - pạ - tặc |
Pạ tặc - ปฏัก |
Cái lao |
ฐ - ฐาน |
Thỏ - thản |
Thản - ฐาน |
Tên 1 loại bệ |
Học tiếng thái có tác dụng gì?
Người thường xuyên dùng hai hay nhiều ngôn ngữ cũng có trí nhớ hoạt động (working memory, loại trí nhớ trong thời gian ngắn) lớn hơn so với người chỉ biết một ngôn ngữ, dẫn đến các khả năng đọc tốt hơn, tính nhẩm tốt hơn, nhớ các danh sách tốt hơn.
Người học ngoại ngữ thì các vùng liên quan đến ngôn ngữ ở não phát triển to lên (xem Mårtensson et al., 2012). Não của những người có nhiều ngôn ngữ được vận động luyện tập nhiều hơn, do họ chuyển đi chuyển lại liên tục giữa các thứ tiếng và tìm thứ tiếng thích hợp cho mỗi thời điểm, khiến cho não khoẻ hơn và thông minh lên, tương tự như là các cơ bắp khi được luyện tập thường xuyên. Sự thông mình này thể hiện ra các lĩnh vực khác như làm toán, khả năng giải quyết các vấn đề, v.v.
Những người học ngoại ngữ thì khả năng nghe và nhận biết các âm thanh và giọng nói khác nhau cũng tăng lên, bởi não phải làm việc nhiều hơn để phân biệt các loại âm thanh. (Xem Krizman et al., 2012). Họ cũng dễ phân biệt các thứ tiếng nước ngoài với nhau hơn dù không hiểu các tiếng đó. Ví dụ một người nói được hai thứ tiếng Tây Ban Nha và Catalan thì dễ phân biệt sự tiếng Anh với tiếng Pháp hơn là một người chỉ biết tiếng Tây Ban Nha.
Não của những người biết ngoại ngữ có khả năng tập trung và hạn chế phân tán tốt hơn là nếu chỉ biết một thứ tiếng (xem Bialystok & Craik, 2010). Do phải chuyển đổi giữa các ngôn ngữ nên họ quen hơn với sự chuyển đổi, và do đó khả năng multi-tasking (đòi hỏi chuyển đổi liên tục giữa các việc) cũng tốt hơn (xem Gold et al., 2013) (xem study from the Pennsylvania State University). Do có thể tập trung và loại bỏ thông tin nhiễu loạn tốt hơn, nên những người biết nhiều thứ tiếng cũng có khả năng quan sát thế giới xung quanh tốt hơn, theo một nghiên cứu của trường ĐH Pompeu Fabra ở Tây Ban Nha (study from Spain’s University of Pompeu Fabra).
Thao một số nghiên cứu y học (Xem Craik et al., 2010), tuổi trung bình của những biểu hiện mất trí (dementia) đầu tiên ở những người chỉ biết nói một thứ tiếng là 71.4 tuổi, còn ở những người nói được hai thứ tiếng trở lên là 75.5 tuổi, như vậy việc biết ngoại ngữ giúp kéo dài độ tuổi minh mẫn. Kể cả đối với người đã lớn tuổi, thì việc học thêm ngoại ngữ cũng không thừa mà giúp tăng sự minh mẫn. Có người ở Việt Nam đi học tiếng Đức khi tuổi đã ngoài 80, những người không hiểu thì dèm pha là “hâm thế, học để xuống âm phủ nói chuyện với Marx à”, nhưng người này rất minh mẫn cho đến tận ngày cuối đời ở tuổi ngoài 90.
Học tiếng thái phục vụ cho công việc và cuộc sống của bạn
Biết ngoại ngữ thì sẽ dễ dàng có bạn bè người nước ngoài, thú vị hơn là nếu chỉ có bạn bè cùng nước. Và khi đi du lịch, nếu biết tiếng hay có bạn ở nơi đến thì chuyến đi sẽ thuận lợi và hấp dẫn hơn.
Một nghiên cứu của trường ĐH Chicago (study from the University of Chicago) cho thấy những người nói hai thứ tiếng có khả năng đưa ra các quyết định đúng đắn (rational) hơn là những người chỉ biết một thứ tiếng. Một nghiên cứu của trường Pennsylvania State University (có link ở phía trên) cho thấy, trong một công việc thường ngày như là lái xe ô tô, người biết ngoại ngữ cũng phạm ít lỗi hơn là người không biết ngoại ngữ.
Một cách tốt nhất để có được bạn thân người nước ngoài là biết tiếng mẹ đẻ của họ. Như Nelson Mandela đã từng nói: “Khi anh nói bằng thứ tiếng người ta hiểu được, thì điều anh nói đi đến được cái đầu của người ta. Khi anh nói bằng tiếng mẹ đẻ của người ta, thì điều anh nói đi đến được trái tim người ta“.
Không những là giao tiếp bằng tiếng nước ngoài, mà khả năng diễn đạt trình bày trong chính tiếng mẹ đẻ cũng có thể tăng lên, sáng sủa và dễ hiểu hơn.
Tuy rằng, theo dự đoán, trong mấy chục năm nữa có đến 1/2 dân số thế giới sẽ nói thạo tiếng Anh, và như vậy đi đâu cũng chỉ cần biết tiếng Anh (dù đó là tiếng mẹ đẻ hay tiếng nước ngoài) là “tồn tại” được, nhưng khi muốn một người nước nào đó mua đồ của mình thì việc biết tiếng của nước đó vẫn là một lợi thế lớn. Bởi người ta có thể dùng tiếng Anh trong công việc và giao tiếp, nhưng khi “hưởng thụ” thì người ta vẫn quen sự dụng thứ tiếng thân thuộc nhất đối với người ta hơn, thứ tiếng đem lại cảm giác gần gũi hơn. Đối với người Việt Nam, việc cần biết tiếng Anh là “không thể tránh khỏi” nếu muốn vươn ra thế giới, nhưng biết thêm một thứ tiếng khác nữa vẫn sẽ đem lại lợi thế rất lớn.
Ngày càng có nhiều công việc đòi hỏi phải biết ngoại ngữ, nên việc biết ngoại ngữ sẽ là một trong các yếu tố nhằm đảm bảo công việc và tăng thu nhập. Ví dụ như trong khoa học và công nghệ hiện nay, nếu không biết tiếng Anh thì rất khó làm nghiên cứu, vì phần lớn các tài liệu quan trọng và các hội thảo quốc tế là bằng tiếng Anh. Người biết tiếng nước ngoài có thu nhập trung bình cao hơn là người không biết. Ví dụ, theo một thống kê của nhà kinh tế học Albert Saiz ở MIT, đối với người Mỹ thì việc biết thêm tiếng Đức làm tăng thu nhập trung bình lên 3.8%. Sự chênh lệch đó, nếu tính cả một đời làm việc, lên đến hàng trăm nghìn đô la một người.
Khả năng ra nước ngoài sinh sống của một người trung bình tất nhiên là thấp thôi. Nhưng việc biết tiếng nước ngoài làm tăng khả năng lựa chọn, vì sẽ dễ dàng ra nước ngoài sống và thích nghi với cuộc sống ở đó hơn nếu muốn.
Học tiếng thái để đi du lịch ở thái
Người ta có câu “biết một ngoại ngữ thì trình độ cao lên một cái đầu” (hay là “như có thêm một cái đầu”). Nếu không biết ngoại ngữ thì cũng khó tiếp cận các sự tinh tuý của văn hoá của nhân loại ở các nước khác. Bất đồng ngôn ngữ là một trong các rào cản cho việc giao lưu văn hoá và truyền bá các tiến bộ (văn hoá, tư tưởng, khoa học, công nghệ, v.v.) từ nước này sang nước khác.
Người Pháp có câu “traduire, c’est trahir” (dịch tức là “phản bội”). Một bản dịch dù tốt đến mấy cũng ít nhiều có những chỗ “phản bội” lại nội dung của bản gốc, vì có nhiều thứ rất khó có thể dịch mà truyền tải đúng được mọi ý tứ sang một thứ tiếng khác. Hơn nữa, ở Việt Nam, rất nhiều sách tiếng nước ngoài khi dịch sang tiếng Việt thì sai trầm trọng nhiều chỗ, chất lượng dịch rất kém, nên nếu chỉ đọc các bản dịch đó thì sẽ bị hiểu sai nhiều điều.
Thi hào Goethe có câu phát ngôn nổi tiếng: “Ai không biết gì về tiếng nước ngoài thì cũng không biết tiếng của chính mình“. (Wer fremde Sprachen nicht kennt, weiss nichts von seiner eigenen). Học ngoại ngữ giúp người ta có cái để mà so sánh về từ vựng và ngữ pháp, từ đó hiểu thêm ngôn ngữ đầu tiên của mình. Ví dụ, ngay trong tiếng Việt, có rất nhiều từ gốc Hán hay gốc Pháp hay gần đây hơn là nhập khẩu từ tiếng Anh, mà những người không biết ngoại ngữ sẽ ít nhận ra và do đó có thể sẽ không hiểu thấu nghĩa của chúng.
Bởi vì văn hoá và thế giới quan gắn liền với ngôn ngữ, nên việc viết thêm một thứ tiếng mới cũng làm tăng cường thế giới quan. Ví dụ như trong tiếng Nhật có hai từ cơ sở khác nhau cho màu xanh thẫm (dark blue) và màu xanh nhạt (light blue), và do đó người học tiếng Nhật sẽ có được thêm cách nhình khác về các màu sắc. (Xem thanasopoulos et al., 2010)
Trong quan hệ quốc tế, việc có thể hiểu một cách chính xác các ý của nhau là rất quan trọng. Người ta nói rằng quả bom nguyên tử thứ hai ném xuống Nhật Bản là do một lỗi dịch sai khiến Mỹ hiểu nhầm ý nói của Nhật. Không biết điều đó có thật hay không, nhưng chắc chắn rằng nếu xoá bỏ được các sự hiểu nhầm do dịch sai đem lại thì thế giới sẽ tránh được rất nhiều phiền phức. Người Ả Rập có câu ngạn ngữ: “Hãy học thêm một thứ tiếng, để tránh được một cuộc chiến tranh“. Biết ngoại ngữ cũng là liều thuốc chống lại các tư tưởng kỳ thị (như kỳ thị người nước ngoài, kỳ thị chủng tộc, v.v.)
THƯ VIỆN LIÊN QUAN
Cùng tìm hiểu các nguyên âm tiếng Thái cho người mới bắt đầu
Cùng học bảng chữ cái tiếng Thái cho người mới bắt đầu nào!
Hoặc gọi ngay cho chúng tôi:
1900 7060
Chính sách bảo mật thông tin | Hình thức thanh toán | Quy định chung
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 0310635296 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM cấp.
Giấy Phép hoạt động trung tâm ngoại ngữ số 3068/QĐ-GDĐT-TC do Sở Giáo Dục và Đào Tạo TPHCM cấp